Nội dung bài viết
Xuyên Tâm Liên
Theo “Sách những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” do Cố Giáo Sư – Tiến Sỹ Đỗ Tất Lợi biên tập
Cây xuyên tâm liên còn có tên gọi khác là Nguyễn Cộng, lam khái liên, khổ đảm thảo, roi des amers (Pondichery hồi thuộc pháp) – Green chireta (Anh)
Tên khoa học là Andrographis Paniculata (Burum.f.f) Nees (Justicia Paniculata Burm.f.)
Thuộc họ Ô rô Acanthaceae
A. Mô tả cây xuyên tâm liên
Cây nhỏ, thuộc thảo, mọc thẳng đứng, cao từ 0,3 – 0,8m, nhiều đốt, rất nhiều cành, Lá mọc đối, cuống ngắn, phiến lá hình trứng thuôn dài hay hơi hình mác, hai đầu nhọn, mặt nhẵn, dài 3-12cm, rộng 1-3cm, nguyên, mềm. Hoa màu trắng, điểm hồng, mọc thành chùm ở nách lá hay đầu cành, thành chùy. Quả dài, 15mm rộng 3,5mm hơi nhẵn. Hạt hình trụ, thuôn dài, mua hoa tháng 9 – 10
B. Phân bố, thu hái và chế biến
Xuyên tâm liên mọc hoang dại và được trồng ở nhiều tỉnh miền Bắc để làm thuốc. Còn mọc ở Ấn Độ, Giava, Malaixia, Miền Nam Trung Quốc (Quảng Châu)
Người ta dùng dễ hay toàn cây phơi hoặc sấy khô, có nơi chỉ dùng lá và cành mang lá, thu hái gần như quanh năm. Nhưng thường mùa hè dùng là và phần trên mặt đất của cây, mùa thu đông dùng rễ và toàn cây.
C. Thành phần hóa học
Cây này được nghiên cứu ở Ấn Độ từ lâu. Năm 1887, E. Pozzi đã cho biết trong cây có một tỉ lệ tanin khá cao tập trung ở vỏ thân, cành và vỏ rễ
Năm 1949 Sen Gupta S.B., Banariée S và D. Chakravarti đã chiết được từ cây xuyên tâm liên 2,68% một chất Glucozit đắng đặt tên là Androgaphiolide (Ind. J . Phanrm., 11,1949, 77 – 78)
Năm 1951 Kpeipool và Koostermans ở Indonedxia đã nghiên cứu cấu trúc chất này
Năm 1952 Kleipool còn phát hiên trong câ tâm liên một chất không có vị đắng, thuộc nhóm các chất Lacton và đặt tên là Meoandrographiolide
Năm 1952 Chakravarti Mrs D. và R.N Chakravarti đã xác minh rằng andrographiolide là một trihydroxylacton với một nhón hydroxyl bậc ba. Các tác giả này đã nghiên cứu cấu trúc và quang phổ hấp thụ và đã bác bỏ giả thuyết của Guhasircar và Hoktader (J.Ind.Chem. Soc., 16,1939,333) cho rằng trong androraphiolide có một nhóm methylendioxyl0
D. Công dụng và liều dùng
Cây này được dùng từ lâu trong nhân dân Việt Nam, Trung Quốc, Ấn Độ và InĐônêxia.
Theo tính vị ghi trong tài liệu y học dân gian Quảng Châu (Trung Quốc) thì xuyên tâm liên có vị đắng, tính hàng, có tác dụng thanh nhiệt giải độc, tiêu thũng, chỉ thống (giảm đau). Dùng trong những trường hợp lỵ cấp tính, viêm ruột và dạ dày, cảm mạo, phát sốt, viêm họng, amiđan, viêm phổi, dùng ngoài chữa rắn độc cắn, xương khớp đau nhức,
Tại Ấn Độ cây này được dùng gói tên Krari Yât làm thuốc bổ đắng cho nên tên Pháp của cây này, trong thời kỳ pondichery còn là thuộc địa của Pháp – là vua của thuốc đắng – roi des amers dùng trong những trường hợp yếu toàn thân, yếu sau khi khỏi sốt, ỉa chảy và lỵ.
Ở Việt Nam, tại một số tỉnh miền trung, nhân dân dùng cây này làm thuốc bổ cho phụ nữa sau khi đẻ xong bị ứ huyết, đau nhức tê thấp, kinh nguyệt bế tắc, nhọt bàm bàm ở hai bên cổ.
Ngày dùng từ 1 đến 20g toàn cây dưới dạng bột sắc. Nếu tán bột thì mỗi lần uống 2 đến 4g bột. Ngày uống 2-3 lần. Dùng ngoài kể liều lượng. Đắp lên những vết rắn cắn, nơi sưng tấy,
Đơn thuốc có vị xuyên tâm liên
Rượu bổ Kariyât.
Rễ cây công cộng phơi khô tán nhỏ 180g, lô hội 30g, rượu 40 độ vừa đủ 1 lít. Ngày dùng 4 đến 16g rượu này trong trường hợp yếu mệt kém ăn
Thuốc hãm bổ:
Toàn cây công cộng thái nhỏ 45g, vỏ cam và hạt mùi tán nhỏ 4g, nước sôi 300ml. Mỗi lần uống 45 đến 60g nước hãm này. Ngày uống hai hay ba lần